Việt Nam ‘đang cẩn trọng’ trong cuộc đối đầu Hoa Kỳ – Trung Quốc

Link Video: https://youtu.be/3eMQHnadZLM

Việt Nam cẩn trọng trong các cam kết với Mỹ một phần nhằm tránh làm căng thẳng quan hệ với Trung Quốc, theo đánh giá của các chuyên gia.

Khi dư âm các hoạt động của Phó Tổng thống Kamala Harris tại Việt Nam chưa lắng xuống, Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội đã ngay lập tức ra tuyên bố với lời lẽ nặng nề.

Nội dung của tuyên bố chủ yếu phản bác các phát biểu trước đó của bà Harris về hành động “cưỡng ép bắt nạt” mà Trung Quốc thực hiện tại Biển Đông.

Trước đó, trong cuộc gặp Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc tại Hà Nội, bà Kamala Harris đã phát biểu: “Hải Quân Mỹ sẽ tiếp tục duy trì sự hiện mạnh mẽ tại Biển Đông và tiếp tục đương đầu với hành vi bắt nạt và những đòi hỏi quá đáng của Bắc Kinh trên biển.”

Tuyên bố của cơ quan ngoại giao Trung Quốc, cùng các động thái trước đó của các quan chức nước này, cho thấy Bắc Kinh đặc biệt “nhạy cảm” về quan hệ Hoa Kỳ – Việt Nam. Mặt khác, nó cũng phần nào giải thích sự thận trọng của Hà Nội trước các triển vọng hợp tác với siêu cường ở bên kia đại dương.

Việt Nam rất cẩn trọng trong việc tham gia vào các thỏa thuận có vẻ nhằm vào Trung Quốc,” Giáo sư Carlyle Thayer từ Học viện Quốc phòng Úc chia sẻ với BBC News Tiếng Việt.

Theo ông Thayer, điều này xuất phát từ nguyên tắc “bốn không” về ngoại giao của Việt Nam, trong đó bao gồm “không liên kết với nước này để chống lại nước kia“.

Trong cuộc gặp Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc tại Hà Nội, Phó Tổng thống Mỹ Harris đã kêu gọi gia tăng sức ép với Bắc Kinh để buộc nước này tuân thủ Công ước của LHQ về Luật Biển

Hà Nội tỏ ra ‘thận trọng

Chuyến thăm của Phó Tổng thống Harris đã khép lại với hàng loạt hoạt động mang tính biểu tượng cũng như nhiều kết quả cụ thể đạt được.

Cả Hà Nội lẫn Washington đều đánh giá chuyến đi là một thành công nữa trong quan hệ giữa hai quốc gia cựu thù.

Phía Việt Nam có thể hài lòng trước việc chính quyền Tổng thống Joe Biden tái cam kết tăng cường mối quan hệ đối tác toàn diện hiện tại, với ưu tiên là hợp tác chống Covid-19 và kinh tế.

Một triệu liều vaccine Pfizer được chuyển đến gần như ngay tức thì sau lời hứa của bà Harris cho thấy phần nào sự sẵn sàng nâng cấp quan hệ, cũng như năng lực thực hiện các cam kết của Mỹ.

Chuyến thăm của bà Kamala Harris: Việt Nam có muốn nâng cấp quan hệ với Mỹ?

48 giờ Kamala Harris ở Hà Nội: Ngắn ngủi nhưng tác động lâu dài

Phía Mỹ cũng đã giành được thỏa thuận thuê địa điểm để đặt tòa đại sứ mới, với thời hạn ngót nghét một thế kỷ như là thông điệp về cam kết gắn bó dài lâu. Việc khai trương văn phòng khu vực của CDC và thúc đẩy hoạt động của Đoàn Hòa Bình (Peace Corps, tổ chức không được hoạt động ở VN sau 1975- xem thêm bài tại đây), một bước đi mà phía Việt Nam khá lưỡng lự trong việc chấp nhận, là những gì cụ thể đạt được từ chuyến đi.

Với các chuyển biến vừa cụ thể vừa mang tính biểu tượng, có thể thấy hai phía đã dần bỏ lại phía sau những nhiễu động của thời Donald Trump.

Khi công bố Chỉ dẫn Chiến lược An ninh Quốc gia Tạm thời, có thể thấy rõ chính quyền Biden ưu tiên quan hệ với Việt Nam (bên cạnh Singapore). Marc Knapper, người được Tổng thống Biden đề cử cho vị trí Đại sứ tại Việt Nam, đã cam kết sẽ nỗ lực để nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược,” giáo sư Thayer dẫn chứng về ưu tiên ngoại giao của Mỹ.

Trong chuyến thăm mới đây tới Việt Nam, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Lloyd Austin cũng đề nghị nước chủ nhà xem xét nâng cấp quan hệ song phương. Trong cuộc gặp với Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, bà Harris đã bày tỏ “chúng tôi tới đây để cân nhắc những gì có thể làm nhằm nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược.”

Tuy nhiên, phía Việt Nam phản ứng khá thận trọng đối với các đề nghị rõ ràng và có phần hối thúc của Mỹ.

Các lãnh đạo Việt Nam thận trọng đối với cả ông Austin lẫn bà Harris. Họ chỉ nhấn mạnh tiếp tục tăng cường mối quan hệ đối tác toàn diện hiện có. Các lãnh đạo Việt Nam đặc biệt đề cập đến quan hệ kinh tế như là nền tảng của mối quan hệ này,” ông Thayer chia sẻ.

Theo giáo sư người Úc, sự dè dặt của Việt Nam là có thể hiểu được và một phần lớn xuất phát từ những nhạy cảm trong quan hệ với Trung Quốc.

Biển Đông và ‘bốn không

Trong cả chặng dừng chân tại Singapore và Việt Nam, bà Kamala Harris đều đưa ra thông điệp mạnh mẽ về an ninh hàng hải, cụ thể là Biển Đông. Mà khi nói tới Biển Đông, hẳn không thể không đụng chạm tới Trung Quốc.

Trả lời BBC News Tiếng Việt, bà Phạm Ngọc Minh Trang, giảng viên Khoa Quan hệ quốc tế trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP HCM, đánh giá:

Về vấn đề Biển Đông và an ninh hàng hải, với chuyến thăm này, Phó Tổng thống Mỹ đã truyền thông điệp một cách trực tiếp đến Việt Nam: Mỹ muốn Việt Nam cùng hợp tác tìm cách gây áp lực để Bắc Kinh phải tuân thủ Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982 và thách thức những yêu sách quá quắt của Trung Quốc. Có thể nói, Mỹ đang muốn Việt Nam chọn đứng về phía Mỹ trong việc đối đầu với Trung Quốc trên Biển Đông.”

Tuy nhiên, về mặt công khai, các lãnh đạo Việt Nam từ lâu đã khẳng định nguyên tắc “ba không“, bao gồm không liên minh với nước này để chống lại nước kia. Đến năm 2019, Sách Trắng Quốc phòng Việt Nam thêm vào một “không” nữa: không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.

Tuy nhiên, cũng trong sách trắng nói trên, Việt Nam còn nêu rõ rằng “tùy theo diễn biến của tình hình và trong những điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau cũng như các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế, hợp tác cùng có lợi, vì lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế“.

Nói cách khác, Việt Nam cho Trung Quốc và các đối thủ tiềm tàng khác biết rằng chính sách ‘bốn không’ có thể thay đổi một khi lợi ích quốc gia bị xâm hại, chẳng hạn chủ quyền trên Biển Đông,” giáo sư Thayer nhận xét.

Tương tự, bà Minh Trang cho rằng bằng cách ấy, Việt Nam mở ra cánh cửa để có thể hợp tác về quân sự với các quốc gia khác. Đó là cánh cửa mà Mỹ đang tìm kiếm.

Tuy nhiên, theo tôi, Việt Nam sẽ phát triển hợp tác sâu sắc hơn với Mỹ thông qua các tổ chức đa phương, nhất là tại diễn đàn khu vực ASEAN, hơn là đẩy mạnh một mối quan hệ quân sự song phương. Việt Nam cũng có thể sẽ tranh thủ sự ủng hộ và sự hiện diện của Mỹ ở Biển Đông để đưa không gian địa lý của cả vùng biển này vào trong Bộ quy tắc ứng xử (COC) mà các nước ASEAN đang đàm phán với Trung Quốc,” bà Minh Trang nói.

Theo bà Phạm Ngọc Minh Trang, bước đi trên của Việt Nam có thể sẽ khiến Trung Quốc phật ý. “Bằng chứng là họ đã có bài đăng rất dài trên trang facebook chính thức của Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam bày tỏ lập trường đối với chuyến thăm của Phó Tổng thống Mỹ. Đây là một trong những trở ngại trong mối quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ,” bà đánh giá.

Bà cũng cho rằng hướng đi của Việt Nam thông qua các tổ chức đa phương dựa trên hai yếu tố.

Thứ nhất là dựa trên luật quốc tế do các yêu sách của Trung Quốc trên biển là phi pháp và đi ngược với luật quốc tế. Điều này tạo được tính chính danh cho Việt Nam khi ‘Việt Nam không liên kết với nước này để chống lại nước kia’, mà Việt Nam hợp tác với các quốc gia khác, một trong số đó là Mỹ, để bảo vệ luật pháp quốc tế. Thứ hai là Việt Nam sẽ có vị thế cân bằng hơn với Mỹ trên bàn đàm phán đa phương, nhất là cơ chế đồng thuận của ASEAN, hay mỗi quốc gia đều có một phiếu bầu ở Liên Hiệp Quốc,” bà Minh Trang phân tích.

Mua vũ khí từ Mỹ để làm gì?

Quan hệ hợp tác quốc phòng giữa Mỹ và Việt Nam tăng tiến ổn định trong thời gian qua. Tàu chiến Mỹ, bao gồm cả tàu sân bay, đã nhiều lần thăm Việt Nam trong các chuyến giao lưu hải quân. Nhiều hoạt động huấn luyện quân sự cũng được hai nước phối hợp tiến hành.

Vào năm 2016, Mỹ đã dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí đối với Việt Nam. Từ đó đến nay, Mỹ đã cung cấp cho Việt Nam hai tàu tuần duyên lớp Hamilton.

Vào năm 2019, Việt Nam đạt được thỏa thuận mua sáu máy bay không người lái ScanEagle của Mỹ, theo tạp chí quốc phòng Jane’s.

Trong chuyến thăm vừa qua, Phó Tổng thống Harris cũng thông báo chính phủ Mỹ chấp thuận cung cấp cho Việt Nam chiếc tàu tuần duyên lớp Hamilton thứ ba.

Mỹ đã phê duyệt bán vũ khí cho Philippines thì không lý do gì họ sẽ không bán vũ khí tương tự cho Việt Nam,” giáo sư Thayer nhận định.

Theo giáo sư Thayer, việc Hoa Kỳ cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam hiện nay chủ yếu tập trung vào lý do an ninh nội địa. Đây không phải là trở ngại chính đối với các yêu cầu từ Việt Nam về việc mua vũ khí và công nghệ quân sự của Hoa Kỳ để phục vụ cho việc ngăn chặn đe dọa từ bên ngoài.

Trở ngại thực sự không phải là việc Hoa Kỳ có chấp thuận các yêu cầu của Việt Nam hay không mà là khả năng của Việt Nam trong việc mua và tích hợp vũ khí và công nghệ của Hoa Kỳ vào hệ thống vũ khí hiện nay, vốn chủ yếu do Nga cung cấp,” ông nói.

Đa dạng hóa nguồn cung, bằng cách mua máy bay quân sự từ Canada, châu Âu và các thiết bị quân sự từ Israel và các nước phương Tây khác, bao gồm cả Mỹ, là hướng đi gần đây của Việt Nam.

Cũng có một mối quan ngại là chính quyền Việt Nam sử dụng vũ khí của Mỹ để đàn áp người dân trong nước. Về vấn đề này, giáo sư Thayer cho rằng khả năng Việt Nam mua vũ khí Mỹ để sử dụng vào mục đích an ninh nội địa, chẳng hạn kiểm soát và khống chế đám đông, là thấp.

Trong bối cảnh hiện tại, Quốc hội Mỹ sẽ phản đối việc bán vũ khí sát thương cho Việt Nam để sử dụng vào mục đích an ninh trong nước. Việt Nam rất khó có khả năng đưa ra yêu cầu mua các loại vũ khí này,” ông nói.

Bùi Thư

Ngun: https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-58373964